Manila – thủ đô của quốc đảo Philippines mang trong mình sự giao thoa giữa hiện đại và cổ kính, sôi động và trầm lặng. Là thành phố nằm ở bờ Đông của vịnh Manila trên đảo Luzon, Manila được xếp vào danh sách những thành phố đô thị hóa dạng đặc biệt với dân số khoảng 14 triệu người. Ngoài ra, thành phố quyến rũ này còn ẩn trong mình rất nhiều sự thật thú vị mà không phải ai cũng biết.
Manila đứng đầu danh sách các thành phố đông dân nhất thế giới với khoảng 1,6 triệu người/16,56m². Tuy nhiên, được đặt kì vọng vô cùng cao nên “thành phố mới nổi” của thủ đô Philippines đang trên đà đô thị hóa cao.
Với dân số chủ yếu theo Công giáo, Manila có một số nhà thờ được xây dựng từ nhiều thế kỷ trước với đầy đủ các biểu tượng tôn giáo cổ xưa.
Khu phố Tàu lâu đời nhất trên thế giới nằm ở quận Binondo của Manila. Được thành lập vào thế kỷ 16 như một cộng đồng cho người Công giáo Trung Quốc, khu vực này vẫn đang thu hút các nhà đầu tư, chủ nhà hàng, cửa hàng bán lẻ và các doanh nghiệp khác đến khai thác.
Được cải tiến từ xe Jeep của quân đội Mỹ bỏ lại sau chiến tranh thế giới thứ II, người dân bắt tay vào cải tạo từ xe quân dụng sang xe dân dụng sao cho chở được nhiều người và nhiều hàng nhất. Chiếc xe jeepney nhiều màu là phương tiện giao thông công cộng phổ biến nhất ở thành phố Manila. Chúng được biết đến với trang trí rực rỡ và chỗ ngồi đông đúc, và đã trở thành một biểu tượng phổ biến của văn hóa và nghệ thuật Philippines.
Manila cần nhiều “không gian thở hơn” vì các bãi đất trống đã nhưỡng chỗ cho việc mở rộng đô thị. Remedios Circle và Harrison Plaza ở Quận Malate, cũng như hai nhà thờ ở Santa Cruz và khu vực Sampaloc từng được xây dựng trên nghĩa địa.
Đại học Santo Tomas ở Sampaloc được thành lập từ năm 1611 đã trở thành trường đại học lâu đời nhất ở châu Á. Đây cũng là trường Đại học Công giáo lớn nhất thế giới về số lượng sinh viên đang theo học.
Với diện tích ngang bằng 1 tờ giấy A4, mệnh giá 100.000 peso nằm trong danh sách các tờ tiền giấy lớn nhất Thế giới. Tờ tiền đặc biệt này được chính phủ Philippines phát hành vào 1998 để kỷ niệm 100 năm đất nước này thoát khỏi ách đô hộ của Tây Ban Nha. Những tờ tiền này được phát hành dành riêng cho các nhà sưu tập, những người phải trả 3.700USD để sở hữu 1 tờ.
Manila là một phần quan trọng của tuyến thương mại thuyền buồm (Manila Galleon) từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Vào năm 1571, thành phố Manila đã trở thành thủ đô của Đông Ấn thuộc Tây Ban Nha, với thương mại sớm bắt đầu qua các tuyến thương mại thuyền buồm Manila-Acapulco. Tuyến thương mại Manila-Acapulco vận chuyển các sản phẩm như lụa, gia vị, bạc, sứ và vàng từ châu Á đến châu Mỹ.
Tại trung tâm Manila, Nhà thờ San Agustin là Di sản Thế giới được UNESCO công nhận. Nhà thờ được xây dựng dựa trên thiết kế theo phong cách Baroque (phong cách nghệ thuật bắt nguồn từ thời Phục Hưng, bắt đầu vào khoảng năm 1600 tại Rome và Ý, sau đó lan ra khắp châu Âu và cả những thuộc địa ở Tân thế giới cho tới cuối thế kỷ 18), sau đó nhà thờ được hoàn thành vào năm 1607. Một chi tiết đáng chú ý về nội thất của nó là những thiết kế triumpe l’oeil (một kỹ thuật nghệ thuật khéo léo kéo những hình tượng hiện thực vô cùng để tạo ra ảo ảnh quang học) được tạo ra bởi các nghệ nhân người Ý.
Vào cuối Thế chiến II, hầu hết Manila đã bị phá hủy do những vụ ném bom trên không. Nhưng với nỗ lực tái thiết lớn của chính phủ cũng như người dân nơi đây đã khiến thành phố này dần khôi phục và hoàn thiện hơn.
Các tòa nhà lịch sử của Manila chịu ảnh hưởng về kiến trúc từ các nhà hát theo phong cách Art Deco đến các cấu trúc thuộc địa Tây Ban Nha và Tân cổ điển. Từ góc độ trên cao, Tòa Thị chính Manila tân cổ điển trông giống như hình một chiếc quan tài.
Công viên Rizal ở trung tâm Manila được xây dựng để tôn vinh người anh hùng dân tộc Jose Rizal. Tọa lạc ở trước đài tưởng niệm Rizal là cột cờ độc lập vươn mình sừng sững trên nền trời xanh thẳm, cũng là niềm tự hào vô bờ của người dân Philippines. Cột cờ cao 150 feet cũng là cột cỏ có chiều cao đáng ngưỡng mộ nhất quốc gia nghìn đảo. Trước khi Rizal trở thành một công viên như ngày nay, thì nơi này từng là một địa điểm “chiêu mộ nhân tài” của người Philippines nhằm chống lại chính phủ Tây Ban Nha. Tiêu biểu là hoạt động đấu tranh mạnh mẽ của các linh mục Mariano Gomez, Jose Burgos, và Jacinto Zamora (GomBurZa) là một trong những sự kiện khuấy động cuộc cách mạng Philippines sớm nhất trong việc đấu tranh đẩy lùi người Tây Ban Nha.
Thành cổ Intramuros có tường bao quanh được xây dựng vào thế kỷ 16 để bảo vệ thành phố khỏi bị xâm lược. Là trung tâm lịch sử của Manila, nó đã trải qua các cuộc chiến tranh, động đất và các thảm họa khác.
Manila từng có một phiên bản Fifth Avenue (một đại lộ lớn ở trung tâm của quận Manhattan ở New York City) của Philippines. Đầu thế kỉ 20, Manila đang ở thời hoàng kim với Escolta là một trung tâm kinh doanh phát triển mạnh cùng các tòa nhà theo phong cách nghệ thuật. Bây giờ, các nhà bảo tồn lịch sử và các nghệ sĩ địa phương đang cố gắng làm “sống lại” chứng tính lịch sử một thời hào quang của Manila.
Manila Hotel, nơi tổ chức hàng trăm các chương trình, sự kiện lớn của nhiều tên tuổi nổi tiếng. Với tư cách là một nhà báo, Ernest Hemingway đã dành vài ngày nghỉ dưỡng ở Manila Hotel. James Michener, John Wayne và Beatles cũng vậy. Tướng Douglas MacArthur đã ở đó 6 năm cho đến năm 1941.